Translate

dimanche 16 septembre 2012

can bom Isabelle



Cánh bướm Isabella      Mar 2, '10 7:07 PM

Cánh bướm Isabella




 

Câu chuyện kể về một nhà sưu tập những cánh bướm và một cô bé đi tìm một cánh bướm lạ trên vùng núi Vercors của Pháp để thực hiện lời hứa với người con trai xấu số của ông. Nhà sưu tập là một ông già cô độc sống trong một căn hộ nhỏ ở một khu chung cư. Trong căn hộ của ông, ông sưu tầm đủ các loại bướm, những cánh bướm chấp chới đủ màu sắc nhưng bên trong tâm hồn ông chỉ là một màu đen u tối.

Một ngày kia, một cô bé xuất hiện trước của nhà ông, cô bé bị mẹ bỏ rơi, lạc lõng như một cánh bướm. Cô gái bé nhỏ với đôi mắt mở to và hai bím tóc nâu. Cuộc sống của ông dường như bị đảo lộn từ khi có sự xuất hiện của cô bé. Cô bé làm khuấy động cuộc sống vốn dĩ trầm lặng của ông bằng những câu hỏi tò mò về thế giới xung quanh mình. Đối với ông, cô bé như một sự khó chịu. Trái tim chai sạn vì khổ đau đã làm cho ông không nhận ra đôi mắt ngân ngấn nước, những giây phút hờn dỗi của trẻ con . Tất cả chỉ như một sự khó chịu.

 

-“Ông ơi! Sự khác nhau giữa một giấc mơ và một cơn ác mộng là gì ạ?

- Ác mộng là khi giấc mơ trở nên tội tệ.

-Tại sao người ta gọi giấc mơ xấu là ác mộng?

- Ông không biết. Trẻ con cũng giấc như một giấc mơ. Đến khi chúng lớn lên, chúng trở thành ác mộng…”

 

Ngày qua ngày, cô bé như dòng suối trong mát, thấm dần lên mảnh đất khô cằn, đem lại cho ông lão niềm vui và hi vọng. Và ông, ông cũng mang trong mình một hi vọng. Hi vọng một ngày nào đó ông sẽ tìm thấy cánh bướm Isabella để thực hiện lời hứa với người con trai xấu số của mình. Anh cũng từng giống như ông, đi khắp nơi trên thế giới để tìm kiếm những cánh bướm. Nhưng rồi một căn bệnh đã cướp anh khỏi cuộc sống. Trong suốt những năm chịu đựng khổ sở, anh chỉ mong một lần nhìn thấy một cánh bướm - cánh bướm Isabella. Ông đã tìm kiếm suốt 3 mùa xuân để rồi ngay cả khi anh ra đi, ông vẫn tiếp tục tìm kiếm. 28 năm so với vòng đời chỉ có 2 ngày của 1 con bướm thật dài nhưng so với thời gian vĩnh hằng cũng chỉ như một cái chớp mắt.

 

-“Ông ơi! Tại sao con người lại phải chết!

- Cô bé muốn biết tuốt à, cái chết cũng như một phần của cuộc sống.

- Đến năm 2025, con người sẽ sống đến 150 tuổi ông ạ.

- 150 tuổi cũng chỉ là một giây lát, giống như một cánh bướm thấp thoáng bay qua mà thôi”

 

Thế rồi một ngày, ông lão quyết định lên vùng núi Vertos để tìm kiếm cánh bướm Isabella, nhưng không thể để cô bé ở nhà được, thế là cô bé trở thành người bạn đồng hành bất đắc dĩ với ông lão. Cả thế giới như mở ra trước mắt với cô bé, cô bé thích thú và tò mò với tất cả các thứ cô nhìn thấy trên đường.

 

-“Ông ơi, hoa có biết yêu như con người không?

- Hoa cũng có hoa đực, hoa cái nhưng chúng không thể di chuyển như con người được. Nên những con bướm đã làm điều đó giúp chúng.

- Những cánh bướm là người đưa những bức thư tình cho hoa đực và hoa cái à ông?

- Đúng rồi, cánh bướm là người đưa những bức thư tình, là người vận chuyển tình yêu”

 

Mỗi câu chuyện là một bài học. Có những câu chuyện làm cô bé vui, nhưng cũng có những câu chuyện khiến cô bé buồn.

 

-“Ông ơi, những đứa trẻ sớm bị từ bỏ thì chúng sẽ đi đâu?

- Ông không biết. Có lẽ là không nơi nào cả.

Thật tội cho chúng”

 

Nhưng dường như, chính từ những câu chuyện đó, chính từ những sự thơ ngây, trong sáng của cô bé lại làm cho ông lão dịu đi phần nào. Vào cái ngày ông tìm thấy cánh bướm Isabella cũng là ngày cô bé tìm được hạnh phúc của mình.

 

-“Cháu là một người mẹ tồi. Cháu phải làm thế nào với con bé đây ông?

- Cháu hãy nói với con bé là cháu yêu nó.

Con bé biết điều đó mà.- Nếu nó biết, nó đã không làm những việc như vừa rồi. Chỉ 3 từ đơn giản đó thôi. Cháu hãy tới ôm và nói với nó...”

 


 

Rồi cũng đến ngày cánh bướm Isabella ra đời! Từ kén bướm xanh ngắt, một cánh bướm trắng chấp chới bay lên, như một vì sao trong bầu trời đêm.

 

“Nó sẽ bay đến đâu hả ông?

Ông cũng không biết nữa! Có lẽ đến nơi mà có 1 người vẫn luôn chờ đợi nó”

Phải! Cánh bướm bay đến một nơi mà người con trai đã chờ đợi nó gần 20 năm. Cánh bướm đem đến cho anh hy vọng và đem theo cả tình yêu của một người cha vẫn luôn thương nhớ về đứa con của mình.

 

Bạn hỡi! Nếu muốn gửi tình cảm của bạn tới người mình yêu, hãy nhờ một cánh bướm. Bởi những cánh bướm là người đưa những bức thư tình, là người vận chuyển tình yêu, mang tình yêu của bạn đến cho người ấy và cũng mang tình yêu của người ấy đến cho bạn.
 
 
Một ca khúc thật sự dễ thương trong phim.
 
Le Papillon
 

 

Pourquoi les poules pondent des oeufs?

Pour que les oeufs fassent des poules.

Pourquoi les amoureux s'embrassent?

C'est pour que les pigeons roucoulent.

Pourquoi les jolies fleurs se fanent?

Parce que ça fait partie du charme.

Pourquoi le diable et le bon Dieu?

C'est pour faire parler les curieux.

Pourquoi le feu brûle le bois?

C'est pour bien réchauffer nos corps.

Pourquoi la mer se retire?

C'est pour qu'on lui dise "Encore."

Pourquoi le soleil disparaît?

Pour l'autre partie du décor.

Pourquoi le diable et le bon Dieu?

C'est pour faire parler les curieux.

Pourquoi le loup mange l'agneau?

Parce qu'il faut bien se nourrir.

Pourquoi le lièvre et la tortue?

Parce que rien ne sert de courir.

Pourquoi les anges ont-ils des ailes?

Pour nous faire croire au Père Noël.

Pourquoi le diable et le bon Dieu?

C'est pour faire parler les curieux.

Ça t'a plu, le petit voyage?

Ah oui, beaucoup.

On a vu de belles choses, eh?

J'aurais bien voulu voir les sauterelles!

Sauterelles, pourquoi des sauterelles?

Et des libellules aussi.

À la prochaine fois, d'accord.

D'accord.

Je peux te demander quelque chose?

Quoi encore?

On continue mais cette fois-ci c'est toi qui chantes.

Pas question.

S'il te plaît.

Non, mais non.

Allez, c'est le dernier couplet.

Tu ne crois pas que tu pousses un peu le bouchon?

Pourquoi notre coeur fait tic-tac?

Parce que la pluie fait flic flac.

Pourquoi le temps passe si vite?

Parce que le vent lui rend visite.

Pourquoi tu me prends par la main?

Parce qu'avec toi je suis bien.

Pourquoi le diable et le bon Dieu?

C'est pour faire parler les curieux.
 
Cánh bướm
 
Vì sao con gà lại đẻ trứng?

Để trứng lại nở thành gà

Vì sao những cặp tình nhân lại hôn nhau?

Để những đôi chim câu hát gù gù

Vì sao những bông hoa đẹp lại héo tàn?

Vì đó làm nên sự duyên dáng của hoa

Vì sao lại có quỷ dữ và thánh thần?

Để làm những kẻ tò mò lên tiếng.

Vì sao lửa lại đốt cháy gỗ?

Để sưởi ấm trái tim chúng ta

Vì sao sóng biển lại lùi xa?

Để người ta gọi chúng trở lại

Vì sao mặt trời lại biến mất?

Đó làm nên vẻ đẹp của mặt trời

Vì sao lại có quỷ dữ và thánh thần?

Để làm những kẻ tò mò lên tiếng.

Vì sao con sói lại ăn thịt cừu?

Vì con sói muốn mình no bụng

Vì sao có thỏ và rùa?

Vì chạy nhanh có để làm gì đâu

Vì sao thiên thần lại có cánh?

Để chúng ta tin vào ông già Noel

Vì sao lại có quỷ dữ và thánh thần?

Để làm những kẻ tò mò lên tiếng.

Cháu có thích chuyến đi này không?

Có ạ, nhiều lắm

Cháu có thấy nhiều cái thú vị không?

Cháu chưa thấy những con châu chấu

Con châu chấu! Tại sao lại là châu chấu?

Và những chú chuồn chuồn nữa

Để lần sau được không?

Dạ được ạ.

Cháu hỏi ông chuyện này được không?

Chuyện gì vậy?

Ông cháu mình tiếp tục, nhưng lần này ông hát đấy

Không có chuyện đó đâu

Cháu xin ông đấy

Không và không

Đi đi ông, khổ cuối rồi mà

Cháu có thấy là cháu hơi quá rồi không!

Vì sao con tim lại đập “tic tac”?

Vì mưa rơi “flic flac”

Vì sao thời gian lại trôi nhanh thế?

Vì có gió đến thăm thời gian

Vì sao cháu lại nắm tay ông?

Vì đi với ông cháu rất thích

Vì sao lại có quỷ dữ và thánh thần?

Để làm những kẻ tò mò lên tiếng.

 


samedi 15 septembre 2012

tan man phong thuy

Tản mạn phong thủy:

Mâm ngủ phẩm đầu năm



Thiên Ðức

Người Việt Nam có một phong tục truyền thống tốt đẹp, đó là vào những ngày tết bất cứ gia đình nào dù giàu hay nghèo, ở vào tầng lớp xã hội nào cũng đều có chưng một mâm ngủ phẩm trên bàn thờ .

Nội dung mâm ngủ phẩm thay đổi tùy theo mỗi vùng của đất nước. Ví dụ ở miền Bắc mâm ngủ phẩm thường có 5 loại quả như chuối, bưởi, đào, hồng, quýt.



Hình minh họa số 1:

Mâm ngủ quả miền Bắc

Nguồn: Báo đất việt (1)

Thời gian tết ở miền Trung rơi vào mùa đông nghiệt ngã, lại chịu nhiều bão lụt, cây trái đặc sản địa phương rất hiếm, thường nhập từ nơi khác, mâm ngủ quả gồm phần chủ lực là nải chuối xanh, sau đó tùy theo hoàn cảnh của mỗi gia chủ mà chưng thêm các loại đặc sản địa phương khác như cam, quýt, sung, dưa hấu, bưởi, sung, mãng cầu, thanh long... Do vậy mâm ngủ quả không có nét đặc trưng nhất định của địa phương



Hình minh họa số 2

Mâm ngủ quả miền Trung

Nguồn: Phụ nữ (2)

Riêng miền Nam thời tiết nóng ấm quanh năm, nên trái cây đặc sản địa phương không thiếu thứ gì, lại thêm trái cây ngoại nhập dễ dàng nên mâm ngủ phẩm rất đa dạng và phong phú.chưng mâm ngủ phẩm theo một ước nguyện riêng tư của mình. Nhiều người có cái thú



Hình minh họa số 3:

Mâm ngủ quả miền Nam

Cầu, dừa (vừa), đủ, xoài (xài), thơm (danh )

Nguồn: Phật pháp (3)

Dưới cái nhìn phong thủy, màu sắc mâm ngủ phẩm như trắng xanh, lục, đỏ vàng có ý nghĩa của vòng tương sinh khép kín biểu tượng cho may mắn như kim, thủy mộc hỏa thổ. Về mặt hiếu đạo, mâm ngủ phẩm cúng bàn thờ tổ tiên biểu tượng cho tứ thân phụ mẫu bảo bọc cho gia đình gia chủ chính giữa ấm cúng đoàn viên. Về xướng danh theo tên gọi trái cây có thể nói lên ước vọng hạnh phúc thầm kín của gia chủ ví dụ như: Cầu, dừa, đủ, xài, thơm danh.

Mâm ngủ phẩm xướng danh này được thông dụng lưu truyền tại miền Nam trong nhiều giới, thế nhưng mấy ai hiểu hết ý nghĩa của mâm ngủ phẩm này để không trở thành nạn nhân theo lời cầu nguyện của chính mình?

Thật vậy, ước vọng “cầu vừa đủ xài thơm danh” là một ước vọng khó đạt thành. Thực tế, ít ai mong muốn ở trong hoàn cảnh này. Ý nghĩa mâm ngủ phẩm này nói lên tâm tư thầm kín của những kẽ sĩ tiết tháo ngày xưa, hay tại miền Nam trước đây, do tình hình chiến tranh hay kinh tế lạm phát, cuộc sống kinh tế có phần chật vật, nhưng cá nhân kẽ sĩ vẫn cố gắng gìn giữ danh tiết không bị vẫn đục bởi đồng tiền. Mâm ngủ phẩm của giới “an bần lạc đạo”.

Ngày nay, đa số cán bộ công nhân viên nhà nước, mang danh kẽ sĩ dùng đồng tiền mua bằng cấp, mua ghế thì có thể nào chưng bày mâm quả phẩm nay không? Những kẽ có quá nhiều tham vọng vượt trên tài năng tự có, làm sao thỏa mãn ước nguyện “cầu đủ xài”, họ cần có bao nhiêu mới cho là đủ. Nếu chỉ đủ xài thì lấy tiền đâu chung chi cho cái ghế trong mỗi kỳ đại hội đảng? Những kẽ ăn cướp, tham nhũng trên xương máu của dân nghèo làm sao mà thơm danh được.

Ðối với người làm kinh tế, sử dụng mâm ngủ phẩm này lại càng tai hại, vì một cơ sở kinh tế mà “cầu đủ xài” thì chỉ có từ chết tới chết mà thôi. Vì chủ nhân chỉ mong đủ xài, công nhân chắc là chết đói. “Cầu vừa đủ xài” thì lấy tiền đâu lót tay cho quan tham hối lộ, bôi trơn chính quyền trong mọi dịch vụ kinh doanh? Cơ sở lập ra là mong phát triển mỗi ngày chứ không mong “vừa đủ xài”.

Ðối với giới bình dân không chức quyền, chạy gạo từng bửa, lời khấn nguyện đầu năm “cầu vừa đủ xài” rất thích hợp, và an phận cho vị trí không may mắn của mình trong xã hội. Thế nhưng giới bình dân làm gì có danh tiếng để được “thơm” tho. Do vậy trái thơm trong trường hợp này tự nó đã đổi thay ý nghĩa là mắc mứu hay gai góc. Mâm ngủ phẩm trở thành: Ước nguyện “cầu dừa đủ xài” thật là một đoạn đường “gai góc” phải vượt qua. Nên thay đổi trái thơm bằng những trái sung, sẽ thích hợp hơn. Cầu dừa đủ xài sung sướng (hạnh phúc)



Hình số 4: Cầu dừa đủ xài sung sướng.

Nguồn: Yêu trái cây (4)

Những người Hoa ở miền Nam, làm kinh tế, hiếm khi chưng mâm ngủ phẩm “cầu, dừa đủ, xài, sung mãn”. Mâm ngủ phẩm thường được thay thế bằng 5 trái quýt. Trái quýt tiếng Hoa gọi là cách, kiết có ý nghĩa may mắn. Quýt lớn gọi là tài cách tức là đại kiết. Vì thế mâm ngủ quả này còn được gọi là “ngủ đại kiết”. Năm trái quýt biểu tượng cho năm điều may mắn theo lời khấn nguyện:

Ðại kiết về tiền tài

Ðại kiết về hạnh phúc gia đình, con cái

Ðại kiết về quan hệ xã hội

Ðại kiết về sức khỏe dồi dào, không bịnh hoạn, sống lâu.

Ðại kiết về công việc làm ăn suôn sẻ, không nạn tai



Hình minh họa số 5: “Ngủ đại kiết“

Nguồn: Thiên Ðức

Một mâm ngũ phẩm thật là giản đơn nhưng lại trọn vẹn ước mơ trong cuộc đời.

Ngoài ra còn có một mâm quả phẩm đầy tham vọng về loại xướng danh đó là:



Hình minh họa số 6:

Cầu, dừa, đủ, xài, thơm (danh), sung (sướng), đại kiết, đại lợi (quýt)

Nguồn: Báo đất Việt (5)

Ðây là một mâm quả phẩm nhiều tham vọng trong cuộc đời. Thế nhưng mấy ai đạt được, vì nội dung của nó không còn mang ý nghĩa mâm ngủ phẩm nữa mà là thất phẩm. Trong chữ thất còn có ý nghĩa là mất. Con người không ai có thể gom tất cả mọi điều hạnh phúc trong xã hội đem về cho riêng mình cả. Và chính trong mâm thất phẩm này cũng tiềm ẩn một sự mâu thuẫn nội tại đó là : “cầu vừa đủ xài” làm sao có thể có “đại kiết đại lợi” (quýt) được?

Ngoài ước vọng tiền tài kể trên, mâm ngủ phẩm cũng có thể nói lên ước vọng hạnh phúc của con người.

Trong một buổi nhậu cuối năm, bàn về mâm ngủ phẩm, hai người bạn trẻ trong nước là Vũ Trọng Quang và nhà thơ Phạm Phương Lan (6) đã có sáng kiến đưa ra hai mâm ngủ phẩm nhằm nói lên ước vọng hạnh phúc của riêng mình như là:



Hình minh họa số 7:

Măn, vú (sữa), vải (giải), sầu (riêng)

Nguồn: Vũ Trọng Quang (6)



Hình minh họa số 8:

Măn, chuối, vải (giải), sầu (riêng)

Nguồn: Nữ sĩ Phạm Phương Lan (6)

Rất tiếc hai bạn trẻ này đã gói gọn ý nghĩa mâm quả phẩm trong phạm vi một cuộc phiếm bàn hơn là thật sự giải quyết một nhu cầu hạnh phúc thực tế đó là “sầu riêng” của cuộc sống lứa đôi. Vì thế mâm quả phẩm đã không hoàn mỹ, chưa thể trở thành một hình tượng của ước mơ hạnh phúc đời người qua hai khuyết điểm như sau:

1)- Măn vú hay măn chuối để giải sầu mà không nói rõ trạng thái của vú hay chuối thì làm sao giải sầu được. Giả dụ như vú lép (lãnh cảm), hay chuối héo (trên bảo dưới không nghe) lúc nào cũng chỉ 6 giờ thì chẳng những không giải được sầu, mà sầu lại càng trở nên sầu. Sầu không còn là “sầu riêng” mà đã trở thành “sầu chung” của gia đình. Ðây chính là ước vọng hạnh phúc lứa đôi, một nhu cầu thực tế đời thường, cần phải quan tâm.

2)- Mâm ngủ phẩm chỉ có 4 thứ là tứ phẩm. Người hoa gọi tứ là xi. Xi có nghĩa là chết tức là mâm phẩm vật chết hay héo mòn. Làm sao có được may mắn trong ước mơ hạnh phúc.

Nên chăng các bạn thêm vào những trái sung cho đủ ngủ phẩm. Ước vọng hạnh phúc gia đình sẽ là:

Măn, vú, giải, sầu, sung (sướng) hay măn vú sung (sức/độ) giải được sầu. Măn, chuối ... cũng vậy.

Phải không các bạn?

trung vit lon _ bai thuoc quy

*Trứng vịt lộn-Bài thuốc quý*
Trứng vịt lộn: thức ăn ngon - bài thuốc quý


Từ lâu đời, trứng vịt lộn (TVL) đã được nhân dân ta và một số nước châu Á coi là món ăn ngon, thuốc bổ quý. Để tạo nên công dụng này phải có gia vị kèm theo là rau răm tươi và gừng tươi thái chỉ, ăn với TVL vừa luộc xong còn nóng, chấm với chút muối rang cho vừa miệng.

Giá trị dinh dưỡng của trứng vịt lộn.

Ở nước ta có nhiều loại vịt nhưng hai loại vịt thường nuôi để lấy trứng là: vịt cỏ và vịt chạy Ấn Độ. Trứng vịt cỏ nhỏ, mỗi quả khoảng 60-65g. Vịt chạy Ấn Độ trứng lớn hơn, mỗi quả khoảng 70-80g. Trong quá trình phát triển từ trứng vịt thành trứng vịt lộn (bào thai vịt), một số chất bị tiêu hao biến đổi thành nhiều chất cần thiết cho sự tăng trưởng của bào thai vịt tạo nên giá trị bổ dưỡng của TVL.

 
 
Trứng vịt lộn.

Rau răm

Theo Đông y: rau răm còn có tên là thủy liễu, lão liễu. Rau răm mùi thơm, tính ấm, có tác dụng tán hàn, tiêu thực, sáng mắt, sát trùng. Ăn vừa phải rau răm sống thì ấm bụng, mạnh chân, gối, sáng mắt. Ăn nhiều sinh nóng rét, giảm tính khí, giảm tình dục. Phụ nữ hành kinh ăn nhiều rau răm sống dễ sinh rong huyết. Dùng ngoài rau răm có tác dụng chữa hắc lào (giã đắp hoặc ngâm rượu đặc để bôi). Chữa rắn cắn: thêm với 1 số vị thuốc khác cùng với rau răm tươi, giã nát lấy nước uống, còn bã đắp vào chỗ bị cắn.

Món ăn ngon - bài thuốc bổ

Tên món ăn - bài thuốc thường gọi đơn giản là “trứng vịt lộn”, bao gồm TVL 1-2 quả mới luộc còn nóng và gia vị: 5g gừng tươi thái chỉ, 5g rau răm tươi cắt nhỏ và chút muối rang tán nhỏ, thường ăn vào bữa điểm tâm buổi sáng.

Công năng, tĩnh vị bài thuốc “trứng vịt lộn”: TVL là chư vị, có tác dụng: tu âm, dưỡng huyết, ích trí, sáng mắt, giúp cơ thể mau tăng trưởng. Rau răm là hỗ trợ có tác dụng sáng mắt, mạnh chân gối, ấm bụng. Gừng tươi là bổ sung, có tác dụng kích thích tiêu hóa, mạnh tim, giải độc thức ăn, chống suy giảm tình dục (cả nam và nữ).

Món ăn bổ sung: TVL có lượng sinh tố A (retinol) và tiền sinh tố A (beta caroten) khá cao - các chất này phải có đủ lượng dầu cần thiết để hòa tan, cơ thể mới hấp thu được trọn vẹn. Dầu thực vật có tác dụng tốt với cơ thể người là các loại dầu vừng, lạc, đậu nành (chứa nhiều acid béo không no và omega-3). Do vậy, món ăn bổ sung kèm với TVL tốt nhất là 1 đĩa lạc luộc (hoặc lạc rang) hoặc đơn giản hơn là uống 1 thìa canh dầu đậu nành (hoặc dầu lạc, dầu vừng, dầu oliu).

Liều lượng: trẻ em 5-12 tuổi dùng 1 quả TVL/ngày.

Trẻ em trên 12 tuổi - người lớn dùng 1-2 quả TVL/ngày.

Nên ăn vào buổi sáng sớm có kèm món ăn bổ sung.

Liệu trình: tối thiểu 15 ngày - đối với trẻ còi cọc, ăn thường xuyên mỗi ngày 1 lần cho đến 16 tuổi (90% số trẻ bồi dưỡng bằng TVL nhiều ngày, có cải thiện chiều cao và thể lực hơn hẳn dùng thuốc bổ khác). Người lớn ốm yếu nên dùng khoảng 60-90 ngày. Trong thời gian bồi dưỡng bằng TVL, cần kết hợp ăn uống đủ chất (nhất là rau, quả tươi sạch) làm việc, học tập đều có tiến bộ. Bỏ hẳn thuốc lá, thuốc lào, hạn chế bia rượu. Thường xuyên tập luyện thể dục vừa sức.

Thận trọng: trong thời gian bồi dưỡng bằng TVL cần hạn chế ăn các loại gan (gà, vịt, lợn, bò…) hoặc uống thuốc có sinh tố A hàm lượng trên 1.000UI – Vì trong 100g trứng vịt lộn đã có 3.914UI sinh tố A, chưa kể tiền sinh tố A.
Nguồn: (webtretho)    
 

Ca chua kang nam

Cà chua kháng nấm
thuc vat


Các nhà khoa học thuộc trường đại học Amsterdam đã khám phá ra cách thức giữ cho cà chua khỏi bị héo nhũn – câu trả lời nằm trong mức độ phân tử. Bài báo về việc cây trồng làm thế nào để đánh bại mầm bệnh và điều này có ý nghĩa gì đối với việc chống lại những căn bệnh ở thực vật khác được công bố vào ngày 9 tháng 5 trên tạp chí trực tuyến PLoS Pathogens.

Các nông dân và các nhà nông học đang tiếp tục chống lại khả năng các mầm bệnh của cây cùng tiến hóa theo hệ thống miễn dịch của vật chủ của chúng. Trong nông nghiệp, phương pháp thân thiện môi trường nhất để chống lại sự thay đổi tiến hóa ở các bệnh thực vật là tận dụng hệ thống miễn dịch bên trong của thực vật. Các nhà trồng trọt có thể tạp giao các gen nhiều dạng xuất hiện ở những cây có liên quan vào trong các loại cây khác nhau được lựa chọn, và do đó thúc đẩy được hệ thống miễn dịch của cây một cách tự nhiên.

Trong cuộc nghiên cứu này, tiến sĩ Martijn Rep và đội ngũ nghiên cứu của ông đã khám phá ra cơ bản phân tử của khái niệm được hình thành trước đó về việc lai tạo trong các gen kháng. Các nhà nghiên cứu đã xem xét mối tương tác qua lại giữa một mầm bệnh nấm – nấm Fusarium oxysporum – và cây cà chua mà nấm gây bệnh héo nhũn Fusarium.

Nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một loại protein nhỏ bị một số dòng nấm bịt kín đã làm cho nó cản trở hai trong số các gen kháng bệnh của cà chua. Tuy nhiên, gen kháng bệnh thứ ba được chứng minh là đã hướng mục tiêu đến loại protein bị lấn át này, đưa hệ thống miễn dịch hoàn toàn của cây đến bất cứ dòng nấm sản sinh ra protein nào. Do đó, với bộ gen kháng đúng, cà chua có thể đánh bại được nấm dù có “những thủ thuật phân tử” của những gen sau này.

Các nhà nghiên cứu cho biết “Sự phân tích phân tử này đã mang lại một thao tác không được tiên đoán từ trước tới nay đối với việc kiểm soát chứng bệnh dựa trên các liên kết gen kháng bệnh”.

Trích nguồn: Houterman PM, Cornelissen BJC, Rep M (2008) Sự ngăn bệnh của hệ thống miễn dịch dựa trên gen kháng ở thực vật bằng yếu tố nấm. Tạp chí PLoS Pathog 4(5): e1000061. doi:10.1371/journal.ppat.1000061

Dương Văn Cường (Theo Physorg, Sở KHCN Đồng Nai)

Alexandre Yersin và Viet Nam

Alexandre Yersin và Việt Nam

KHOA HOC CONG NHE

Alexandre Émile John Yersin

Trong ngành vi sinh học (microbiology) Yersin là một trong những tên tuổi lịch sử, vì chính ông là người phát hiện vi khuẩn bệnh dịch hạch (mang tên Yersinia pestis). Trên trường quốc tế, tên ông thường gắn liền với Việt Nam: nói đến Yersin là nói đến Việt Nam. Có thể nói Yersin là một nhà khoa học Việt Nam, vì tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với Việt Nam, và Việt Nam là quê hương của ông. Thế nhưng so với sự nghiệp và công trạng khoa học đồ sộ của ông, sách vở viết về ông vẫn còn rất khiêm tốn. Điều may mắn là dù Yersin đã qua đời gần 60 năm về trước, nhưng ông đã để lại gần 1000 lá thư, và tìm hiểu những lá thư này cho chúng ta thấy đằng sau tên vi khuẩn là một con người, một người nhân hậu đã để lại một di sản quí báu chẳng những cho Việt Nam mà còn cho cả thế giới.

Cuộc đời và sự nghiệp

Alexandre Émile John Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại làng Lavaux, Quận Vaud, bên bờ hồ Geneva, Thụy Sĩ. Sau khi theo học trung học phổ thông ở Lausanne, ông sang Paris theo học y khoa tại Đại học Marburg. Năm 1888, Yersin hoàn tất luận án tiến sĩ y khoa với đề tài bệnh lao (La tuberculous expérimental, type Yersin). Luận án được đánh giá cao và ông được thưởng huy chương đồng, nhưng ông nhận một cách miễn cưỡng. Trong thời gian theo học y khoa, trong một tai nạn bị chảy máu tay khi ông làm giải phẫu trên xác tử thi chết vì bệnh dại, ông được tiếp xúc với Pierre-Paul-Émile Roux (1853-1933), một nhà khoa học nổi tiếng thời đó đang theo đuổi một công trình nghiên cứu về phương pháp chữa trị bệnh dại. Roux cứu sống Yersin bằng cách tiêm thuốc do chính Roux bào chế. Sau khi tốt nghiệp, Yersin được Roux thu nhận vào làm việc với vai trò phụ tá nghiên cứu. Năm 1889, Yersin còn được giao thêm một nhiệm vụ dạy học môn vi sinh học tại Viện Pasteur.

Thời gian làm phụ tá cho Giáo sư Roux, Yersin còn có cơ hội làm tại Bệnh viện nhi đồng (Hôpital des Enfants-Malades), nơi mà bệnh bạch hầu đang là một vấn nạn y tế lớn lúc đó. Yersin thuyết phục Roux nên nghiên cứu về bệnh này. Roux và Yersin tiến hành một số thí nghiệm trên chuột, và từ đó phát triển phương pháp truy tìm toxin diphthérique (độc tố bạch hầu) từ nước tiểu của bệnh nhân. Tiến thêm một bước, Yersin và Roux phát triển vắc-xin thành công dùng cho việc chữa trị bệnh bạch hầu. Đây là một khám phá đầu tiên và một cống hiến quan trọng của Yersin cho vi sinh học. Lúc bấy giờ, sinh học đang ở trong một “Thời đại vàng son của vi khuẩn học” – “Golden Age of Bacteriology”, một cuộc cách mạng về tiêm chủng và vắc-xin.

Với một thành tích đầy hứa hẹn như thế, ai cũng thấy Yersin có một tương lai sáng sũa trong khoa học. Ấy thế mà ông lại quyết định bỏ sự nghiệp nghiên cứu trước sự kinh ngạc của người thầy (Roux) để “Đông du”. Yersin xin nghỉ việc từ Viện Pasteur và đệ đơn xin làm y sĩ cho Công ti vận chuyển đường biển, Messageries Maritimes. Ngày 5/3/1890, ông được kêu lên phỏng vấn, và đem theo một lá thư giới thiệu của Louis Pasteur. Với một người giới thiệu nổi tiếng như thế, Công ti lập tức nhận Yersin vào làm, dù ông chưa bao giờ có kinh nghiệm đi biển bao giờ.

Tháng 9 năm 1890, Yersin đi xe lửa đến Marseille và từ đó xuống tàu Oxus đi Sài Gòn. Yersin đến Sài Gòn ngày 15/10/1890, và ngay sau đó được giao nhiệm vụ mới trên tàu Volga chuyên chở hàng qua lại giữa Sài Gòn và Manila (Phi Luật Tân). Nhiệm vụ trên tàu Volga rất đơn giản và có khi nhàm chán, ông chỉ việc kiểm tra sức khỏe thủy thủ đoàn và cấp giấy chứng nhận y tế. Do đó, Yersin có rất nhiều thời gian để học về hàng hải và hải đồ (cartography) dưới sự chỉ dẫn của các thuyền trưởng. Chính những kinh nghiệm học hỏi trên tàu Volga đã giúp ông trong công cuộc thám hiểm trong nội địa Đông Dương sau này. Trên tàu Volga, Yersin còn tìm cách học tiếng Việt để ông có thể nói chuyện với thủy thủ đoàn mà phần lớn là người Việt Nam.

Đầu năm 1891 Công ti Messageries hủy bỏ các chuyến tàu giữa Sài Gòn và Manila, Yersin được thuyên chuyển sang làm việc trong các chuyến tàu giữa Sài Gòn và Hải Phòng. Tuyến đường mới này giúp ông khám phá thêm về Việt Nam. Ông còn bỏ tiền ra mua một chiếc ca-nô để đi thám hiểm các vùng sâu xa khác trong Việt Nam. Trong các chuyến thám hiểm ở những vùng hẻo lánh, ông trị bệnh cho dân làng hoàn toàn miễn phí. Lòng nhân đạo của ông được thể hiện qua một lá thư ông viết về nhà ở Thụy Sĩ: “Tôi không thể nào đòi tiền từ một bệnh nhân.” Mùa Thu năm 1891, hợp đồng của Yersin với công ti Messageries chấm dứt, và ông bắt đầu dành hết thì giờ để theo đuổi “nghề” thám hiểm.

Mùa Đông năm 1892 Yersin trở về Âu châu để tham viếng gia đình ở Thụy Sĩ và gặp gỡ các đồng nghiệp cũ ở Paris, nơi mà ông mô tả “thời tiết … quả là khắc nghiệt ghê gớm, buồn chán, và lạnh quá.” Khi hay tin ông về Paris, Émile Roux hoan hỉ chờ đón Yersin tiếp tục nghiên cứu với ông, nhưng Yersin đã quyết định bỏ sự nghiệp nghiên cứu khoa học ở Pháp. Quyết định của Yersin không phải vì thời tiết giá lạnh, mà vì “Đối với một người đã từng nếm mùi tự do như tôi, đời sống trong phòng thí nghiệm ở Paris quả là một nhà tù. Nghiên cứu khoa học rất ư là thú vị, nhưng ông Pasteur từng nói rất chính xác rằng muốn làm người thiên tài trong phòng thí nghiệm người đó phải có tiền nhiều để không phải sống trong cảnh thiếu thốn.” Tuy nhiên, với sự tiến cử của Roux, Hiệp hội Địa lí Pháp (French Geographic Society) vinh danh Yersin bằng một bằng tưởng thưởng về chuyến thám hiểm ở Phnom Penh. Trong chuyến quay lại Paris lần này, Yersin cho biết ông được dùng một bữa cơm tối với Louis Pasteur, và được Pasteur “tỏ ý vui mừng về những chuyến thám hiểm của tôi.” Đối với Yersin được dùng bữa cơm và được Pasteur khen ngợi là một vinh dự.

Tháng 1 năm 1893, Yersin quay trở lại Sài Gòn. Lần này, Yersin được giao cho một chức vụ đúng với sở thích và ngành nghề mình: làm cao ủy y tế thuộc địa. Một trong những qui định của công việc là phải mặc quân phục và hành xử nghiêm chỉnh trong các buổi lễ. Nhưng Yersin không thể nào tuân hành theo qui định này, vì ông không thích mặc đồng phục. “Điều làm tôi khó chịu là những người thuộc cấp phải chào tôi theo cung cách quân sự, và tôi cũng phải chào các quan cấp cao hơn tôi theo cung cách như thế. Tôi không thể nào đi ra ngoài mà không phải dơ tay chào. Lúc nào tôi cũng phải bận tâm làm sao đừng đi ngang qua mấy ông đại tá, đại úy ,,,” Ông muốn thoát khỏi Sài Gòn. Để thực hiện ý định này, ông tổ chức những đợt thám hiểm các vùng rừng núi thuộc miền Trung Việt Nam. Những cuộc thám hiểm của ông thường gặp phải khó khăn, vì mưa gió, sình bùn, và lụt lội. Trong một chuyến thám hiểm ông phải đổi cái máy hát mua ở Thụy Sĩ để có một con voi dùng làm chuyên chở hàng hóa và dụng cụ.

Trong thập niên 1890s, nạn dịch cúm hoành hành ở miền Nam Trung Quốc và bắt đầu lan truyền xuống Đông Dương. Năm 1894 cơn dịch lớn xảy ra ở Hồng Kông, với khoảng 150.000 người mắc bệnh, và tỉ lệ tử vong lên đến 95%. Yersin được Nhà cầm quyền thuộc địa gửi đến Hồng Kông để nghiên cứu.

Ngày 15/6/1894, Yersin đến Hồng Kông, và chứng kiến một cảnh tượng tang tóc. Đường xá chật chội đông người thuở nào nay trống trơn; đám tang khắp nơi; những cuộc an táng vộ vã ... Ba ngày trước đó, Shibasaburo Kitasato, một nhà khoa học danh tiếng người Nhật, cũng đến Hồng Kông để nghiên cứu về bệnh dịch. Với sự yểm trợ tài lực dồi dào của chính quyền thuộc địa Anh, Kitasato thành lập phòng thí nghiệm trong bệnh viện Kennedy Town. Trong khi đó, Yersin chỉ có một cái kính hiển vi. Người Anh cũng không cho ông khám nghiệm tử thi.

Sau đó, Yersin được giới thiệu đến gặp Kitasato, và được Kitasato cho làm “quan sát viên”, tức chỉ đứng nhìn nhóm của Kitasato giảo nghiệm tử thi chứ không được trực tiếp nhúng tay vào. Yersin hết sức ngạc nhiên về phương pháp làm việc của Katasato: họ khám nghiệm máu rất kĩ càng và cẩn thận giảo nghiệm các cơ phận của tử thi, nhưng họ lại bỏ qua chỗ sưng bạch hạch (bubo)!

Sau 5 ngày làm quan sát viên, Yersin rất bực bội vì cảm thấy mình chẳng làm được gì. Ông quyết định làm một việc mà y học ngày nay xem là … bất chính. Ông nhờ người thông ngôn gốc Ý vốn có cảm tình với Pháp hối lộ những thủy thủ người Anh để mua cho ông vài xác chết (vì lúc đó các thủy thủ này có nhiệm vụ vận chuyển xác chết). Ngày 20/6/1894 Yersin có được 1 xác chết và bắt tay vào làm việc ngay. Ông cắt phần sưng bạch hạch và lập tức dùng kính hiển vi khám nghiệm. Ông phát hiện “une véritable purée de microbe” – tức một vết mờ nhạt có hình cái que với hai đầu tròn. Khi thử nghiệm với Gram stain, kết quả âm tính, nhưng với baccillus stain thì dương tính. Sau khi làm thí nghiệm trên 5 con chuột khác, kết quả tương tự. Hai ngày sau, Yersin báo cho chính quyền thuộc địa Anh biết về phát hiện của mình. Người Anh lúc đó mới cho phép ông chính thức khám nghiệm tử thi trực tiếp. Lúc này, nhóm của Kitasato cũng bắt đầu quay sang khám nghiệm phần sưng bạch hạch và tuyên bố rằng họ đã phát hiện ra vi khuẩn gây bệnh bạch hầu.

Theo sau là một cuộc tranh cãi ồn ào ai là người đầu tiên đã khám phá ra plague bacillus. Có người cho rằng Yersin và Katasato một cách độc lập cùng khám phá ra vi khuẩn. Cho đến nay vẫn có một số sách giáo khoa đề là Kitasato-Yersin bacillus. Nhưng qua các bài báo của Katasato và bình luận của các cộng sự viên với Katasato, kết quả Gram stain mà Katasato tuyên bố là plague bacillus thực là streptococcus. Song, trong các thư từ để lại Yersin có vẻ chẳng quan tâm gì đến cuộc tranh luận “ai trước”, mà vẫn tiếp tục nghiên cứu [1].

Năm sau đó (1895) Yersin trỏ lại về Paris. Dựa vào kết quả nghiên cứu ở Hồng Kông, ông cùng với cộng sự viên phát triển thành công vắc-xin chống bệnh dịch. Năm 1896, vắc-xin này được dùng để chữa trị thành công một học sinh nhà dòng người Trung Quốc. Sau khi quay về Việt Nam, ông thành lập viện nghiên cứu lấy tên người thầy cũ, gọi tên là Pasteur Institute – Viện Pasteur. Viện Pasteur gồm có một bệnh viện, một trung tâm sản xuất vắc-xin, phòng thí nghiệm, và đài thiên văn.

Nhà thám hiểm

Trong thời gian làm công chức và theo tàu đi lại giữa Sài Gòn và Hải Phòng, Yersin thực hiện nhiều cuộc thám hiểm. Năm 1891 trong một lần thám hiểm vùng Tây Nguyên Việt Nam, ông khám phá ra nhiều điều bí ẩn tại đây và phát hiện một vùng đất ôn đới mà sau này chúng ta biết là Đà Lạt.

Trong một chuyến thám hiểm khác, Yersin bị liên hệ vào một vụ nổi loạn của dân chúng địa phương chống lại nhà cầm quyền thuộc địa. Ngày 18 tháng 6 năm 1893, 56 tù nhân Việt Nam vượt ngục từ nhà tù Phan Rí và than gia với các nhóm phản kháng khác trong một cuộc nổi dậy nhằm lật đổ chính quyền tỉnh. Người Pháp khống chế thành công cuộc nổi dậy, nhưng đạo quân nổi loạn thoát khỏi tỉnh và tái tổ chức. Các nhóm này băng qua các rặng núi để đến Phan Rang tiến hành một cuộc đảo chính khác. Vì không biết được những sự kiện này, Yersin đến làng Bo Kraan một tuần sau đó. Dân làng báo cho ông biết rằng có khoảng 30 người nổi loạn đã vượt qua đây trong đêm qua. Với thói quen liều lĩnh, Yersin quyết định ra tay chận đứng cuộc nổi dậy! Ngày hôm sau, ông rời Bo Kraan cùng với những người Việt tùy tùng trung thành với ông, và băng qua núi. Sau 12 giờ đi trong mưa, đoàn ông đối đầu với nhóm nổi loạn tại làng Pho Tan Ngam. Yersin muốn bắt người đứng đầu nhóm nổi loạn làm tù binh.

Yersin bao dây và dồn người đứng đầu nhóm nổi loạn vào một căn chòi, nhưng trong giây phút cuối, những người Việt tùy tùng của ông chạy trốn, và chỉ một mình ông phải đối diện với kẻ thù! Những chi tiết trong câu chuyện chỉ là những chữ do chính Yersin ghi chép, do đó rất khó mà biết được đây là một câu chuyện nói khoác hay là một câu chuyện có thật. Theo Yersin, ông đe doạ kẻ thù ông với cây súng lục nhưng họ tấn công ông trước khi ông có thì giờ nổ súng. Sau một hồi quần nhau, Yersin bị một thương nhẹ ở tay mặt và bị ăn một báng súng. May mắn thay, những người nổi loạn không giết ông, họ bỏ mặc ông đó rồi rời hiện trường, có lẽ họ nghĩ ông là một nhân vật quân sự Pháp và sợ bị trả thù. Gần Nha Trang, mười ngày sau đó, dân quân người Việt bắt trọn nhóm nổi loạn . Yersin chụp hình những người đứng đầu cuộc nổi loạn trước khi họ bì xử tử. Bằng một mô tả sinh động, Yersin cho biết người đao phủ phải chém đến 4 lần mới chặt được đầu của Thouk, một người đứng đầu trong cuộc nổi loạn [2].

Sau này, Yersin được thăng chức và trở thành một trong những quan chức cao cấp nhất trong chính quyền thuộc địa ở Đông Dương. Ông thực hiện nhiều cuộc khảo cứu, kể cả các vùng xa xôi như Mumbai bên Ấn Độ. Ông điều hành một mạng lưới phòng thí nghiệm và trung tâm tiêm chủng ngừa khắp Việt Nam. Ông chủ trương và thực hiện các chiến dịch chống sốt rét bằng cách cung cấp quinine cho người dân bản xứ. Ông tham gia làm việc cho Trung tâm Khí tượng Đông Dương, nghiên cứu làm bản đồ, và hải đồ cho ngành hàng hải Việt Nam. Ông còn giới thiệu phương pháp trồng trọt cây cao su tại Việt Nam, nhưng đem lại những món lời khổng lồ cho các công ti cao su Pháp như Michelin và làm khổ những công nhân Việt Nam trong các đồn điền cao su như thế. Nhưng đây là một câu chuyện khác.

Năm 1940, Yersin trong tình trạng sức khỏe kém quay lại Pháp lần cuối. Nhưng chỉ lưu lại Pháp một năm; năm 1941 ông quay về Nha Trang, mảnh đất ông yêu quí. Ngày 1 tháng 3 năm 1943, Yersin đau bệnh và qua đời một cách cô đơn tại nhà riêng ở Suối Giao (Nha Trang. Ông thọ 79 tuổi. Trong di chúc để lại, ông muốn được chôn cất tại Nha Trang để gần những người ông yêu mến. Cho đến nay, cứ đến ngày 1 tháng 3 hàng năm, dân chúng trong vùng vẫn viếng mộ ông để tỏ lòng mến mộ và kính phục cho một tấm lòng khoa học và nhân đạo.

Trong danh sách những người Pháp có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Việt Nam, có lẽ Yersin là một người mà công trạng và di sản của ông chẳng những không ai chất vấn mà còn được mến mộ. Tại một số thành phố lớn như Đà Lạt, Hà Nội, hay Thành phố Hồ Chí Minh đều có con đường mang tên ông. Di sản khoa học của ông vẫn còn tồn tại với những trường mang tên ông, và nhất là Viện Pasteur. Yersin quả là một nhà khoa học đã đem hai chữ Việt Nam và Nha Trang vào lịch sử vi sinh học trên thế giới.

Mộ Yersin ở Nha Trang (Vietbao.vn)

Chú thích:

[1] Chi tiết về việc làm của Yersin tại Hồng Kông được trích dẫn từ bài viết “Alexandre Yersin and the plague bacillus” của Tom Solomon, đăng trên [Tập san Journal of Tropical Medicine and Hygiene năm 1995, số 98, trang 209-12.

[2] Chi tiết về vụ Yersin dính dáng vào cuộc nổi loạn được trích trong bài luận văn “Alexandre Yersin and his adventures in Vietnam” (Alexandre Yersin và cuộc mạo hiểm ở Việt Nam) của Giáo sư William Burns, đăng trên Tập san y học của Welcome Trust, Anh Quốc.

Cống hiến của Yersin cho khoa học có thể tóm lược trong các công trình khảo cứu sau đây:

Bệnh bạch hầu:

Contribution à l'étude de la diphtérie. Viết chung với Emile Roux. Annales de l'Institut Pasteur, 1888, 2 (12): 629-661.

Contribution à l’étude de la diphtérie. Annales de l’Institut Pasteur, 1888, 2: 629-661;

Contribution à l'étude de la diphtérie. Deuxième mémoire. Viết chung với Emile Roux, Annales de l'Institut Pasteur, 1889, 3 (6): 273-288.

Contribution à l'étude de la diphtérie. Troisième mémoire. Viết chung với Emile Roux. Annales de l'Institut Pasteur, 1890, 4 (7): 385-426.

Về bệnh lao

De l'action de quelques antiseptiques et de la chaleur sur le bacille de la tuberculose. Annales de l'Institut Pasteur, 1888, 2: 60-65.

Etude sur le développement du tubercule expérimental. Thèse de la faculté de Médecine de Paris 26 mai 1888. Annales de l'Institut Pasteur, 1888, 2: 245-266.

Etude sur le développement du tubercule expérimentale. Sceaux, Charaire et fils, 1888, 31 pages.

Analyse de l'article de Stschastny : sur les relations entre les bacilles de la tuberculose et les cellules. Annales de l'Institut Pasteur, 1889, 3 (2): 93-94.

Analyse de l'article de H. Kuhne : sur la coloration des bacilles dans les nodules morveux. Annales de l'Institut Pasteur, 1889, 3 (1): 44-45.

On Về bệnh dịch

Sur la peste de Hong Kong. Communication à L'Académie des Sciences le 30-7-1894.
Comptes rendus de l'Académie des Sciences, 1894, 119: 356.

La peste bubonique à Hong Kong. Annales de l'Institut Pasteur, 1894, 8: 662-667.

La peste bubonique à Hong Kong. Archives de Médecine Navale, 1894, 62: 256-261.

La peste bubonique. Deuxième note. With A. Calmette and A. Borrel. Annales de l'Institut Pasteur, 1895, 9: 589-592.

La peste bubonique. Deuxième note. Archives de Médecine Navale, 1895, 64: 49-52.

Sur la peste (sérothérapie). Annales de l'Institut Pasteur, 1897, 11: 81-93.

Rapport sur la peste aux Indes. Archives de Médecine Navale, 1897, 68: 366-372.

Historique du premier cas de peste traité et guéri par l'emploi du sérum antipesteux. Bulletin de l'Académie de Médecine, 1897, 36: 195-199.

Rapport sur la peste bubonique de Nha Trang (Annam). Annales de l'Institut Pasteur, 1899, 13: 251-261.

L'épidémie de peste de Nha Trang de juin à octobre 1898. Annales d'Hygiène et de Médecine Coloniales, 1899, 2: 378-390.

Vaccination par atténuation du coccobacille de la peste. Viết chung với C. Carré. 13e Congrés International de Médecine, Paris, 1900.

Les épidémies de peste en Extrême-Orient. In collaboration with Paul-Louis Simond (1858-1947). 13e Congrés International de Médecine, Paris, 1900.

Về bệnh truyền nhiễm trong gia cầm

Notes succintes sur une épizootie de buffles, sur la typhomalarienne et la bilieuse hématurique. Archives de Médecine Navale, 1895, 64: 49-52.

Note sur la fièvre bilieuse hématurique. Comptes Rendus de la Société de Biologie, 1895, 47: 447-449.

Expériences sur la peste bovine. Bulletin Economique de l'Indochine, 1898, 2: 245.

Traitement de la peste bovine. Viết chung với C. Carré and Fraimbault.
Annales d'Hygiène et de Médecine Coloniales, 1899, 2: 175-182.

Note sur les épizooties des bovins en Indochine. Annales d'Hygiène et de Médecine Coloniales, 1903, 6: 467-469.

Etudes sur quelques épizooties de l'Indochine. Annales de l'Institut Pasteur, 1904, 18 (7): 417-449.

Về thám hiểm

Notes recueillies pendant trois voyages chez les Moïs de l'Indochine.
Archives de Médecine Navale, 1894, 61: 310-312.

Explorations et souvenirs du Docteur Yersin (souvenirs recueillis par l'Institut Pasteur de Dalat en mai 1956. [Dalat : Institut Pasteur, 1956].

Récit des premières explorations du Docteur Yersin dans la chaîne annamitique, publié dans la revue Indochine de 1942 à 1943. Comprend :

Premier contact avec les pays Moïs de l'Annam.

Voyage de Nha Trang à Stung-Treng par les pays Moïs (première, deuxième et dernière parties).

Rencontre avec des pirates sur le plateau Moï.

Première reconnaissance du plateau du Lang-Bian.

Un mois chez M'Siao (juillet-août 1893).

De Nha Trang à Tourane par les plateaux Moïs.

De Nha Trang à Tourane par les pays Moïs.

Về Viện Pasteur tại Nha Trang

L'Institut Pasteur de Nha Trang, Annam. Annales d'Hygiène et de Médecine Coloniales, 1900, 3: 506-520.

L'Institut Pasteur de Nha Trang, Annam. Bulletin Economique de l'Indochine, 1900: 253-265.

Về thủy thổ

La station d'altitude du Hon Ba (Annam), les essais agricoles qui y sont poursuivis. Revue de Botanique Appliquée et d'Agriculture Coloniale, 1925, 5: 574-582.

Essais d'acclimatation de l'arbre à quinquina en Indochine. Première note. Revue de botanique appliquée et d'agriculture coloniale, 1927, 7: 250-254 and 331-338.

Note sur divers essais agricoles entrepris aux stations d'altitude des Instituts Pasteur d'Indochine. Deuxième note. In collaboration with A. Lambert. Revue de botanique appliquée et d'agriculture coloniale, 1927, 7: 809-816.

Note sur divers essais agricoles entrepris aux stations d'altitude des Instituts Pasteur d'Indochine. Troisième note. In collaboration with A. Lambert. Revue de botanique appliquée et d'agriculture coloniale,1928, 8: 119-122.

Essais d'acclimatation de l'arbre à quinquina en Indochine. Archives de l'Institut Pasteur d'Indochine, 1928, 8: 5-22.

Note sur divers essais agricoles entrepris aux stations d'altitude des Instituts Pasteur d'Indochine. Quatrième note. In collaboration with A. Lambert. Revue de botanique appliquée et d'agriculture coloniale, 1931, 11: 301-304.

Longue survie d'hévéas brisés par un typhon. Comptes rendus de l'Académie des Sciences, 1932, 194: 1620.

Essais d'acclimatation de l'arbre à quinquina en Indochine. Cinquième note. In collaboration with A. Lambert. Revue de Botanique Appliquée et d'Agriculture coloniale, 1935, 15: 225-234.

Note sur les essais d'acclimatation des quinquinas entrepris en Indochine par l'Institut pasteur. Bulletin de la Société Médico-chirurgicale de l'Indochine, 1936: 594-595.

Essais d'acclimatation de l'arbre à quinquina en Indochine. Sixième note. In collaboration with A. Lambert. Revue de Botanique Appliquée et d'Agriculture Coloniale, 1939, 19: 237-242.

Về các lĩnh vực khoa học khác

Tumeur mélanique de la plante du pied. Annales de l'Institut Pasteur, 1887, 1 (3): 142.

Analyses de trois articles : P. Liborius : « Recherches sur l'action désinfectante de la chaux », O. Bujwid : « une réaction chimique pour les bacilles du choléra », Fischer : « Recherches bactériologiques pendant un voyage aux Indes. Annales de l'Institut Pasteur, 1887, 1 (6): 318-319.

Note sur un cas de fièvre récurrente en Indochine. Comptes rendus de la Société de Biologie, 1906, 60: 1037-1038.

Une maladie rappelant le typhus exanthématique observée en Indochine. In collaboration with J. J. Vassal. Bulletin de la Société de Pathologie Exotique, 1908, 1: 156-164.

La Simaroubine dans la dysenterie amibienne. Written with L. Braudat and Lalong-Bonnaire. Comptes rendus des travaux du troisième Congrés Biennal de la Far Eastern Association of Tropical Medicine, Saigon, 1913: 101-105.

Quelques observations d'électricité atmosphérique en Indochine. Comptes rendus de l'Académie des Sciences, 1930, 191: 366-368.

Nguyễn Văn Tuấn (Theo ykhoanet.com)